Từ cuối thế kỉ XIX, phong trào vũ trang khởi nghĩa từ Nam chí Bắc sau khi Hàm Nghi xuất binh và phát hịch Cần Vương đã tàn lụi dần với sự thất bại của cuộc khởi nghĩa Hương Sơn (1896). Một số thổ hào địa phương nổi dậy ngay từ khi thực dân Pháp mới đặt chân tới đất nước ta đến nay tuy vẫn còn cố gắng cầm cự, nhưng cũng chỉ đóng khung trong phạm vi nhỏ hẹp từng vùng và trên con đường tan rã. Duy có cuộc khởi nghĩa của nông dân Yên Thế do Đề Thám (Hoàng Hoa Thám) lãnh đạo trong tình thế bị bao vây o ép nên đến tháng 12 - 1897 buộc phải đình chiến lần thứ hai với kẻ thù. Thực dân Pháp cố tranh thủ thời gian này chuẩn bị mọi điều kiện chờ ngày triệt hạ pháo đài cuối cùng của phong trào khởi nghĩa của nhân dân ta. Về phía nghĩa quân thì những hoạt động cuối cùng từ 1909 đến 1913 cũng chỉ là những đợt sóng cuối cùng của một cao trào yêu nước chống xâm lược của nhân dân ta mà thôi.
Thực dân Pháp như vậy về căn bản đã hoàn thành công cuộc bình định Việt Nam về mặt quân sự, và trong bối cảnh đó đã có thể bắt tay vào khai thác thuộc địa Việt Nam nói riêng cũng như Đông Dương nói chung một cách quy mô.
Ngày 22-3-1897, Toàn quyền Đông Dương Pôn Đume (Paul Doumer) gửi cho Bộ trưởng Bộ Thuộc địa Pháp dự án chương trình hoạt động:
1. Tổ chức một chính phủ chung cho toàn Đông Dương và tổ chức bộ máy cai trị hành chính riêng cho từng “xứ” thuộc Liên bang.
2. Sửa đổi lại chế độ tài chính, thiết lập một hệ thống thuế khóa mới sao cho phù hợp với yêu cầu của ngân sách, nhưng phải dựa trên cơ sở xã hội cụ thể, và phải chú ý khai thác những phong tục, tập quán của dân Đông Dương.
3. Chú ý xây dựng thiết bị lớn cho Đông Dương, như xây dựng hệ thống đường sắt, đường bộ, sông đào, bến cảng... rất cần thiết cho công cuộc khai thác.
4. Đẩy mạnh nền sản xuất và thương mại bằng việc phát triển công cuộc thực dân của người Pháp và lao động của người bản xứ.
5. Bảo đảm phòng thủ Đông Dương bằng việc thiết lập những căn cứ hải quân và phải tổ chức quân đội và hạm đội cho thật vững mạnh.
6. Hoàn thành công cuộc bình định xứ Bắc Kì, bảo đảm an ninh vùng biên giới Bắc Kì.
7. Khuếch trương ảnh hưởng của nước Pháp, mở rộng quyền lợi của nước Pháp ở vùng Viễn Đông, nhất là ở các nước lân cận".
Đume rất am hiểu tình hình Đông Dương vì đã từng là nghị sĩ giữ chức Thượng thư Tài chính trong Chính phủ Pháp và là báo cáo viên những dự án luật thanh toán tạm thời và tổng thanh toán tài chính Bắc và Trung Kì. Chương trình khai thác do Đume vạch ra để thi hành ở Đông Dương (chủ yếu là Việt Nam) từ những năm đầu thế kỉ XX có mục đích tối thượng là biến gấp Đông Dương thành một thuộc địa khai khẩn bậc nhất, bảo đảm siêu lợi nhuận cao nhất cho đế quốc Pháp.
Sênô (Jean Chesneaux) trong cuốn Đóng góp vào lịch sử dân tộc Việt Nam đã đánh giá cao Dume:
“Chính ông đã đưa chế độ thuộc địa từ giai đoạn kinh nghiệm chủ nghĩa hầu như “thủ công" sang giai đoạn tồ chức hệ thống. Chính ông đã tạo dựng bộ máy thống nhất về bóc lột tài chính và đàn áp chính trị trong thực tế sẽ được duy trì nguyên vẹn đến tận 1945”
1. Một bộ máy hành chính cai trị chặt chẽ
Mới đặt chân sang Việt Nam được vài tuần, Đume đã gửi về Bộ Thuộc địa một bản báo cáo tổng quát về tình hình Đông Dương:
“Hiện nay tình hình chinh trị toàn cõi Đông Dương không một nơi nào đáng lo ngại hay quá bi đát. Thực tế, tại nhiều nơi cũng có những khó khăn có thể sẽ trầm trọng thêm; nhân dân toàn xứ đều như đã khuất phục dưới quyền thống trị của chúng ta, nhưng chưa phải đã thấm nhuần tính chất vĩnh viễn của nền đô hộ Pháp và sẵn sàng nắm lấy một thời cơ thuận lợi hay một giây phút yếu đuối của chúng ta để lật đổ ách nặng trên đầu”
Để phục vụ kịp thời và đắc lực cho công cuộc khai thác và bóc lột kinh tế, Đume chú ý tới hai yếu tố chính trị “chia để trị” và “dùng người Việt trị người Việt”.
Một mặt, Đume tìm mọi cách chia cắt đất nước, chia rẽ dân tộc Việt Nam hòng phân tán lực lượng để dễ bề cai trị. Nhưng mặt khác, ông ta lại quan tâm đến sự thống nhất của bộ máy thuộc địa toàn Đông Dương. Đó là sự phức tạp trong tính chất hai mặt của một chính sách thâm độc.
Theo sắc lệnh ngày 17-10-1887, thực dân Pháp thành lập Liên bang Đông Dương, năm đó mới bao gồm có Bắc Kì, Trung Kì, Nam Kì và Campuchia, trực thuộc Bộ Hải quân và Thuộc địa. Ngày 19- 4-1899, Tổng thống Pháp ra sắc lệnh sáp nhập thêm Lào vào Liên bang Đông Dương. Việt Nam bị chia cắt làm 3 kì: Bắc Kì, Trung Kì và Nam Kì với ba chế độ cai trị khác nhau. Bắc Kì và Trung Kì là hai xứ bảo hộ vẫn còn giữ lại chính quyền phong kiến về hình thức; Nam Kì là đất thuộc địa hoàn toàn do Pháp nắm cùng với Lào và Campuchia cũng là đất bảo hộ của Pháp, hợp thành Liên bang Đông Dương. Với thủ đoạn này, chúng nhằm xóa bỏ tên Việt Nam, Lào, Campuchia trên bản đồ thế giới.
Đứng đầu Liên bang Đông Dương có Toàn quyền, là người thay mặt chính phủ Pháp cai trị Đông Dương về mọi mặt. Dưới Toàn quyền là Thống đốc Nam Kì, Thống sứ Bắc Kì và Khâm sứ ở Trung Kì, Lào, Campuchia.
Cơ quan quyền lực tối cao là Hội đồng tối cao Đông Dương, Chủ tịch Hội đồng là Toàn quyền, các Uỷ viên Hội đồng hầu hết là người Pháp, chỉ có hai người Việt đại biếu cho dân “bản xứ”. Các Uỷ viên là giám đốc các công sở, các viên quan cai trị đứng đầu 5 xứ, chủ sự các Phòng Thương mại và Canh nông...
Hội đồng họp thường kì mỗi năm một lần để bàn bạc và thông qua ngân sách Đông Dương, ngân sách hàng xứ, cùng các công việc do Toàn quyền đề xuất có liên quan đến việc thống trị và khai thác Đông Dương.
Đến năm 1911, đổi thành Hội đồng Chính phủ Dông Dương gồm 23 ủy viên, có 4 người "bản xứ" do Toàn quyền lựa chọn và chỉ định hằng năm (gồm 3 người Việt của 3 xứ và 1 người Campuchia).
Văn phòng Phủ Toàn quyền gồm có các phòng: Chính trị, Hành chính, Quân sự, Nhân sự và Văn thư là cơ quan thường trực của Phủ Toàn quyền kiêm cả công việc đối ngoại và khen thưởng kỉ luật. Các cơ quan khác có Hội đồng phòng thủ Dông Dương thành lập ngày 31-10-1902; ủy ban Tư vấn về mỏ thành lập ngày 26-5-1913; Hội đồng Tư vấn Học chính Đông Dương thành lập ngày 21-12-1917; Sở chỉ đạo công việc chính trị và bản xứ, Sở tình báo An ninh trung ương (tức Sở mật thám)…
Việc củng cố chính quyền Liên bang gắn với việc củng cố chính quyền các xứ Thủ đoạn “chia để trị” là một trong những nguyên tắc chỉ đạo hành động của chúng.
Nam Kì là đất thuộc địa không có quan hệ phụ thuộc vào Nam triều. Ngày 8-2-1880, Tổng thống Pháp ra sắc lệnh thành lập Hội đồng thuộc địa Nam Kì, quy định rõ chức năng của nó là cơ quan “tư vấn”, có thể bàn về thuế má, thu chi..., tuyệt đối không được đề cập đến vấn đề chính trị. Hội đồng thuộc địa có 16 thành viên (10 Pháp, 4 Việt đã vào “làng Tây”, nói được tiếng Pháp và một số đại biểu của Phòng Thương mại và Hội đồng Tư vấn).
Giúp việc cho Thống đốc còn có Hội đồng Tư vấn (Thống đốc chủ tọa và 4 ủy viên người Pháp, 2 ủy viên người Việt do Thống đốc chỉ định và 4 ủy viên dự khuyết Hội đồng hình sự (tức Hội đổng tư vấn thêm 2 quan toà, có quyền hạn đối với cả Campuchia và Lào). Ngoài ra còn có Phòng Thương mại thành lập từ năm 1868 và Phòng Canh nông thành lập từ năm 1897 gồm toàn người Pháp. Đây là tổ chức của “Côlông” (người Pháp sang làm ăn ở Đông Dương) lập nên. Hai phòng này được cử một nghị sĩ vào Nghị viện Pháp.
Nam Kì được chia thành 20 tỉnh: Bạc Liêu, Bà Rịa, Bến Tre, Biên Hòa. Cần Thơ, Châu Đốc, Chợ Lớn, Gia Định, Gò Công, Hà Tiên, Long Xuyên, Mỹ Tho, Rạch Giá, Sa Đéc, Sóc Trăng, Tân An, Tây Ninh, Thủ Dầu Một Trà Vinh, Vĩnh Long. Có 2 thành phố: Sài Gòn là thành phố cấp I và Chợ Lớn là thành phố cấp II.
Đứng đầu tỉnh là công sứ người Pháp. Tỉnh nào lớn có thêm phó công sứ giúp việc cho Chánh, Phó Công sứ có Sở Tham biện và Hội đồng hàng tỉnh.
Đứng đầu thành phố có Chánh, Phó Đốc lí với Tòa Đốc lí và Hội đồng thành phố (cho thành phố cấp I) hoặc Uỷ ban thành phố (cho thành phố cấp II) Tỉnh có một số trung tâm hành chính hoặc Sở Đại lí. Tính đến năm 1919, Nam Kì có 64 trung tâm hành chính và Sở Đại lí. Đứng đầu các đơn vị này có Đốc phủ sứ, Tri phủ hay Tri huyện. Một số địa phương hoặc khu vực có tầm quan trọng đặc biệt về chính trị hoặc quân sự có Đại lí người Pháp, đại diện trực tiếp của công sứ cai trị.
Để giúp việc cho bộ máy hành chính cai trị của Pháp, thực dân Pháp vẫn giữ hệ thống chính quyền phong kiến ở dưới làng xã, có xã trưởng, hương trưởng và Hội đồng kì hào. Nam giới có 2 loại: tráng đinh (có tài sản, phải nộp thuế) và bạch đinh (không có tài sản).
Trung Kì là xứ bảo hộ, vẫn duy trì "triều đình nhà Nguyễn", nhưng vua An Nam không có "thực quyền". Giúp việc vua có Hội đồng Phụ chính cùng Viện Cơ mật trông coi về đường lối lãnh đạo quốc gia, Viện Đỗ sát kiểm soát hoạt động của quan lại. Còn có Hội đồng Phủ Tôn nhân để quản lí công việc của dòng họ nhà vua. Quyền hành thực sự nằm trong tay Khâm sứ Chủ tịch Hội đồng Bảo hộ Trung Kì. Sau khi ép Thành Thái ra đạo dụ ngày 27-9-1897, toàn bộ quyền cai trị giao cho Tòa Khâm sứ. Hội đồng Phụ chính, Hội đồng Thượng thư đều bãi bỏ. Có Hội đồng Cơ mật gồm 6 bộ (Lại, Hình, Binh, Hộ, Lễ, Học), nhưng mọi quyết định của Hội đồng này đều phải được Khâm sứ thông qua mới chuyển lên nhà vua. Khâm sứ có quyền chủ tọa cả Hội đồng Cơ mật và Hội đồng Phủ Tôn nhân. Mỗi bộ đều có một viên chức Pháp đại diện cho Khâm sứ nắm gọi là Hội lí.Các quan lại triều đình, từ chánh nhất phẩm đến tòng tam phẩm, triều đình Huế chỉ được bổ dụng sau khi Khâm sứ chuẩn y. Quan lại từ chánh tứ phẩm trở xuống do Khâm sứ bổ nhiệm.
Khâm sứ có một Hội đồng giúp việc gồm một số viên chức người Pháp, một đại diện của Phòng Thương mại và Canh nông, hai đại diện của Viện Cơ mật. Việc xử án do một Hội đồng luận án chung cho cả Trung Kì và Bắc Kì đặt tại Hà Nội giải quyết.
Trung Kì có 14 tỉnh: Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hoà, Phan Rang, Bình Thuận, Đắc Lắc, thành phố Đà Nẵng là “đất nhượng địa”.
Đứng đầu tỉnh là viên Công sứ người Pháp, có cơ quan Toà Công sứ giúp việc Cũng có các bộ phận công tác khác như ở Nam Kì. Nhưng ở đây (và cả Bắc Kì) vẫn tồn tại hệ thống tổ chức quan lại cũ của Nam triều, đứng đầu tỉnh là Tổng đốc (tỉnh lớn) hoặc Tuần phủ (tỉnh nhỏ), án sát coi việc tư pháp, Bố chính coi việc thuế khóa, Lãnh binh (tỉnh nhỏ) hoặc Đê đốc (tỉnh lớn) coi việc binh .
Dưới tỉnh là phủ, huyện, châu (miền núi), có cáo Tri phủ, Tri huyện, Tri châu thay mặt Công sứ và Tổng đốc (Tuần phủ) cai quản từng phủ hoặc từng huyện. Có một số nha thuộc giúp việc như đề lại, lục sự, thừa phái.
Tổng là đơn vị hành chính trung gian giữa phủ, huyện với các làng, xã trực thuộc. Một phủ hay huyện có nhiều tổng (thường là dưới 10 tổng) do chánh, phó tổng cai quản. Mỗi tổng quản lí một số làng xã (thường là trên dưới 10 làng xã).
Xã và làng (thôn) là cấp cơ sở của chính quyền Nhà nước. Đứng đầu là lí trưởng, phó lí trưởng. Còn có Hội đồng kì hào, kì mục điều hành mọi công việc của làng xã. Chế độ này ở cả ba xứ Việt Nam gần giống nhau. Đume thấy rõ sự lợi hại của nó: “Duy trì trọn vẹn, thậm chí tăng cường cách tổ chức cũ khi mà chúng ta đã thấy đó là một điều tốt. Theo cách tổ chức này thì mổi làng xã sẽ là một nước cộng hoà nhỏ, độc lập trong giới hạn những quyển lợi địa phương .Đó là một tập thể được tổ chức rất chặt chẽ, rất có kỉ luật và rất có trách nhiệm đối với chính quyền cấp trên về những cá nhân thành viên của nó, những cá nhân mà chính quyền cấp trên có thể không cần biết tới, điều đó rất thuận lợi cho công việc của chúng ta" .
Bắc Kì có cơ quan cai trị cao nhất là Phủ Thống sứ do Thống sứ người Pháp đứng đầu, có Hội đồng Bảo hộ giúp việc. Hội đống này có thể chuyển thành Hội đồng xét xử chung cho cả Bắc Kì và Trung Kì. Còn có thêm hai Phòng Thương mại và Canh nông ở hai thành phố Hà Nội và Hải Phòng được cử đại biểu vào Hội đồng Bảo hộ. Bắc Kì có 26 tỉnh, 35 đại lí và 2 thành phố. 26 tỉnh là Bắc Giang, Bắc Cạn, Bắc Ninh, Hà Đông, Hà Giang, Hải Dương, Hải Ninh, Hà Nam, Hoà Bình, Hưng Yên, Kiến An, Lai Châu, Lạng Sơn, Lào Cai, Nam Định, Ninh Bình, Phúc Yên, Phú Thọ, Quảng Yên, Sơn Tây, Sơn La, Thái Bình, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Vĩnh Yên, Yên Bái.
Đến 20-8-1891, Toàn quyền Đông Dương ra Nghị định cắt một số khu vực của một số tỉnh để thành lập tại Bắc Kì 4 đạo quan binh: Phả Lại, Lạng Sơn, Yên Bái, Sơn La. Năm 1916, đặt thêm đạo quan binh thứ 5 gồm Lai Châu và Thượng Lào. Những đạo quan binh này, chú trọng nhiều về việc bố phòng, tiễu phỉ, đàn áp các cuộc nổi dậy chống đối của nhân dân trong vùng.
Hệ thống chính quyền của Bắc Kì từ cấp tỉnh trở xuống về đại thể giống như ở Trung Kì.
Hầu hết các quan viên nắm quyền cai trị từ cấp xã trở lên đều thuộc giai cấp địa chủ phong kiến, câu kết với thực dân Pháp, làm tay sai cho chúng, tiếp tục áp bức bóc lột nhân dân, nhất là ở các cấp làng xã, phủ huyện, đạo, châu. Còn từ cấp tỉnh , xứ và Liên bang Đông Dương thì quyền lực tập trung vào tay những quan chức người Pháp. Vua tôi nhà Nguyễn chỉ là bù nhìn được hưởng một số phụ cấp lương bổng do thực dân Pháp chi trả. Số công chức người Pháp ở Việt Nam nói riêng và ở Đông Dương nói chung ngày một tăng thêm và chiếm tỉ lệ cao nhất so với thuộc địa của các nước khác. Họ hưởng lương rất cao và hưởng một chế độ hưu trí đặc biệt, trở thành một lớp người sâu mọt đục rỗng ngân sách Đông Dương để làm giàu cho cá nhân. Năm 1907, chỉ riêng Sở Thương chính (Douane) đã có tới 3341 nhân viên, tức là chiếm tỉ lệ 1 người trên số 5000 dân.
Số viên chức người Pháp ở Đông Dương năm 1897 là 2860, năm 1902 là 3778, năm 1906 là 4390, năm 1911 là 5683 người
Vào những năm 20 của thế kỉ này, Đông Dương với 25 triệu dân, có tới 4700 quan chức người Pháp, tương đương với số lượng quan chức người Anh ở ấn Độ, một xứ có 350 triệu dân. Tới những năm 30, số lượng đó tăng gấp 3 lần số công chức người Anh ở Ấn Độ
Lương và phụ cấp lương của một Tổng đốc người Việt là 800 đồng Đông Dương tương ứng với 750 phơrăng (1 đồng Đông Dương bằng 2,5 phơrăng), bằng lương và phụ cấp lương của một viên thư kí tòa sứ hạng nhì người Pháp, hoặc chỉ bằng một phần ba lương và phụ cấp lương của Công sứ hạng nhì đầu tỉnh. Ngoài tiền lương, họ còn được hưởng những khoản phụ cấp lớn và những khoản cướp đoạt tài sản, xương máu của nhân dân Việt Nam. Một cựu nghị sĩ Pháp sau khi đi thăm Đông Dương về đã than phiền: “So với bọn viên chức thuộc địa thì những tên cướp đường còn là những người lương thiện”.
Bên cạnh tổ chức chính quyền cấp cao nhất xuống tận cơ sở, ở mỗi xứ đều có các Nha là chi nhánh của các công sở trung ương, có nhân viên hoạt động tới tỉnh, huyện, xã. Các chi nhánh này tuy đặt bên cạnh chính quyền xứ, tỉnh, song lại thuộc hệ thống dọc chịu sự điều khiển của các công sở trung ương Hệ thống tòa án ở các xứ và tỉnh đều trực thuộc Tổng biện lí bên cạnh Toàn quyền. Cơ quan chính quyền xã chỉ làm việc hòa giải. Chỉ có toà án tỉnh, thành phố và các Tòa án tối cao mới có quyền xử án, xử theo luật của Pháp từ thời kì Napôlêông phối hợp với luật Gia Long, hoàn toàn không có sự hiểu biết đầy đủ về phong tục tập quán Việt Nam. Khi cần khủng bố nhân dân, đàn áp dập tắt các cuộc khởi nghĩa, các hoạt động chống đối chính quyền thuộc địa, chúng thiết lập một Hội đồng đề hình (Toà án đặc biệt) để xét xử. Hội đống này chủ yếu tìm cách làm thật nhiều án chém và án nặng, việc xét xử chỉ làm chiếu lệ.
2. Bộ máy quân sự, cảnh sát, toà án và nhà tù
Đume mong muốn hoàn thành bình định sớm để "phòng thủ Đông Dương", mở rộng quyền lợi của nước Pháp ở vùng Viễn Đông, nhất là ở các nước lân cận với Đông Dương". Tình hình quốc tế lúc này đang có chiều hướng căng thẳng.Thực dân Anh tăng cường lực lượng ở căn cứ Hương Cảng và Xingapo. Đế quốc Đức có mặt ở Viễn Đông. Quân đội Nhật xâm lược Trung Quốc và nhòm ngó Đông Dương.
Thực dân Pháp triệt để thực hiện chính sách "dùng người Việt trị người Việt", dùng binh lính thuộc địa để bảo vệ thuộc địa, hoặc để lấn chiếm thuộc địa. Vì vậy, việc tăng cường lực lượng vũ trang, bắt lính người Việt là cấp bách .
Ngày 7-7-1900, chúng ra đạo luật về tổ chức quân đội thuộc địa (troupes coloniales) bao gồm vừa binh lính Pháp, vừa binh lính người bản xứ.
Ở Việt Nam, lính cơ (milice) là lực lượng bổ sung cho quân đội thuộc địa. Hội đổng phòng thủ Đông Dương do Toàn quyền Đông Dương làm Chủ tịch có quyền huy động quân đội, lập các đạo quan binh, tuyển mộ binh lính và phân bố lực lượng. Trực tiếp điều khiển quân đội ở Đông Dương là viên Tổng chỉ huy người Pháp. Dưới quyền y có Tổng tham mưu trưởng và các viên chỉ huy bộ binh , hải quân, pháo binh.
“Tính đến năm 1897, đội quân viễn chinh đã có:
- 3 liên đội bộ binh gồm 8 đại đội.
- 4 đại đội và 2 trung đội lê dương.
Phân phối như sau: 10 đại đội ở Bắc Kì, 2 đại đội ở Nam Kì, 2 trung đội ở Trung Kì.
Về quân lính bản xứ, con số cũng tăng nhiều:
- 3 liên đội pháo thủ Bắc Kì có 13 đại đội, đóng ở Bắc Kì.
- 1 liên đội pháo thủ Trung Kì có 3 đại đội đóng ở Nam Kì.
Súng ống trang bị cho quân lính được tăng cường, có các binh chủng mới như pháo binh (bắt đầu từ 1899), kị binh (1900), công binh (1903), đội cầu, thông tin, vẽ bản đố... bổ sung thêm tướng tá, lấy binh lính bản xứ ngày một đông, tổ chức những đội quân dự trữ (1898), tăng cường lính da đen châu Phi (cuối 1900); lập phòng tuyển lính và dự trữ ở Hà Nội, Sài Gòn (1901).
Lúc bấy giờ, dưới quyền Tổng chỉ huy quân đội Pháp đã có đến 3 Thiếu tướng, Tổng cục trưởng hậu cần, Giám đốc quân y, Đại tá chỉ huy pháo binh, Đại tá chỉ huy công binh.
Về hải quân, có phân nhánh hạm đội Nam Kì và hải quân công xưởng Sài Gòn dưới quyền chỉ huy của một Đại tá hải quân; hải cảng Hồng Gai và Quảng Châu Loan do Trung tá hải quân chỉ huy, cả hai đều đặt dưới quyền một Thủy sư đô đốc chỉ huy tối cao hạm đội Viễn Đông, có chân trong Hội đồng phòng thủ Đông Dương
Ngày 1-11-1904, Tổng thống Pháp ra sắc lệnh bắt thanh niên ở Bắc Kì và Trung Kì từ 22 tuổi đến 28 tuổi phải
Nhận xét
Đăng nhận xét